Thứ Năm, 03/12/2020 4:53:54 (GMT+7)

Tổng cục Thuế giải đáp nhiều vướng mắc liên quan đến Nghị định 126/2020/NĐ-CP

Chiều 1/12, Tổng cục Thuế đã tổ chức Họp báo chuyên thông tin về Nghị định 126/2020/NĐ-CP (Nghị định 126) và các Nghị định hướng dẫn Luật Quản lý thuế. Ông Đặng Ngọc Minh, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế chủ trì Hội nghị. Cùng tham dự có đại diện Lãnh đạo một số đơn vị thuộc Tổng cục Thuế và phóng viên từ hơn 50 cơ quan thông tấn báo chí tại Trung ương và Hà Nội.

Tổng cục Thuế giải đáp nhiều vướng mắc liên quan đến Nghị định 126/2020/NĐ-CP

Tại buổi họp báo, ông Lưu Đức Huy, Vụ trưởng Vụ Chính sách (Tổng cục Thuế), đơn vị tham mưu xây dựng Luật Quản lý thuế và Nghị định 126/2020 đã giới thiệu tới phóng viên các nội dung mới được quy định tại Nghị định 126 và các văn bản hướng dẫn Luật Quản lý thuế khác.

Ông Huy cho biết, Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 (Luật số 38) được Quốc hội thông qua ngày 19/6/2019 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2020. Tại Luật số 38 ngoài các nội dung quy định ngay tại Luật, có những nội dung giao cho Chính phủ và Bộ Tài chính theo thẩm quyền để quy định hướng dẫn chi tiết.

mr Minh.jpg

Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Đặng Ngọc Minh trực tiếp giải đáp
nhiều câu hỏi của phóng viên tại buổi họp báo

Thực hiện Luật số 38, Chính phủ đã ban hành 05 Nghị định hướng dẫn gồm các Nghị định: Nghị định 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 quy định về hóa đơn, chứng từ; Nghị định 125/2020/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn; Nghị định 126/2020/NĐ-CP quy định hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế; nghị định 128/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan; Nghị định 132/2020/NĐ-CP quy định về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết.

“Nghị định 126 sẽ không quy định các điều khoản mà 04 Nghị định còn lại nêu trên đã quy định”. Nghị định có 9 chương, 44 Điều và có hiệu lực thi hành từ ngày 5/12/2020 theo đúng quy định của văn bản quy phạm pháp luật”, ông Huy nói.

Ông Huy đã điểm những nội dung mới được quy định tại Nghị đinh 126 như vấn đề kê khai thuế; khai nộp hồ sơ khai, nộp thuế thay cho cá nhân nhận cổ tức bằng chứng khoán, địa điểm nộp hồ sơ khai thuế; quy định về tổng số thuế thu nhập doanh nghiệp mà người nộp thuế đã tạm nộp của 03 quý đầu năm tính thuế không được thấp hơn 75% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp theo quyết toán năm; Trách nhiệm cung cấp thông tin về tài khoản và khấu trừ thuế hộ của ngân hàng thương mại.

Cuộc họp báo cũng đã dành phần lớn thời gian để phóng viên các cơ quan thông tấn báo chí và cơ quan thuế hỏi-đáp những nội dung vướng mắc liên quan chủ yếu đến Nghị định 126/2020.

Không đánh trùng thuế hai lần

Theo ông Lưu Đức Huy Nghị định 126 quy định việc tổ chức khai thuế thay và nộp thuế thay cho cá nhân nhận cổ tức bằng chứng khoán, cá nhân là cổ đông hiện hữu nhận thưởng bằng chứng khoán; cá nhân được ghi nhận phần vốn tăng thêm do lợi tức ghi tăng vốn; cá nhân góp vốn bằng bất động sản, phần vốn góp, chứng khoán. Trong đó: Đối với cá nhân nhận cổ tức bằng chứng khoán; cá nhân là cổ đông hiện hữu nhận thưởng bằng chứng khoán thì tổ chức có trách nhiệm khai thuế thay và nộp thuế thay cho cá nhân đối với thu nhập từ đầu tư vốn khi cá nhân chuyển nhượng chứng khoán cùng loại. “khi chuyển nhượng phải khai thuế, vấn đề ai là người khai thuế, trước đây cá nhân tự khai, nay Nghị định 126 quy định tổ chức khai thay như vậy chỉ thay đổi chủ thuế khai nộp thuế TNCN chứ ko có chuyện nộp trùng 2 lần”, ông Huy nhấn mạnh.

toan canh.jpg

Toàn cảnh buổi họp báo

Liên quan đến nội dung này, phóng viên Đài truyền hình Việt Nam có đặt câu hỏi liệu khi NĐT nhận cổ tức bằng cổ phiếu, trộn chung vào tài khoản cổ phiếu thường…làm thế nào xác định cổ phiếu nào là cổ phiếu thưởng, cổ phiếu nào là cổ phiếu thường để tính thuế thu nhập 5%? Và có việc thuế chồng thuế không khi cổ phiếu thưởng vẫn phải đóng thuế TNCN và khi thực hiện giao dịch bán cố phiếu tiếp tục chịu thuế thu nhập từ chuyển nhượng cổ tức?

Ông Đặng Ngọc Minh cho biết: Theo quy của Luật thuế TNCN. Mỗi nhà đầu tư khi nhận cổ tức phải nộp thuế trên cổ tức đó 5%.

Cũng theo Luật thuế TNCN, Khi NĐT thực hiện giao dịch có chênh lệch, có thu nhập từ hoạt động kinh doanh chứng khoán phải nộp thuế TNCN. Do đó đây là hai loại thuế hoàn toàn khác nhau với quy trình khác nhau nên không thể nói là trùng.

“Nếu nhận cổ tức nộp 5%, nhưng để khuyến khích hoạt động của các DN cũng như loại hình phát hành trái phiếu bằng cổ tức. hiện nay cho phép DN chia cổ tức bằng cổ phiếu thay bằng tiền mặt. Nếu chia bằng tiền mặt thì trách nhiệm nộp thuế của cá nhân và công ty chứng khoán có trách nhiệm khấu trừ 5%. Nhưng DN phát hành cổ phiếu thưởng và chia cổ tức bằng cổ phiếu thưởng thì chỉ khi phát sinh giao dịch mới phải nộp thuế 5%. Theo ông Minh đây là chính sách ưu đãi của nhà nước với cá nhân.

Tuy nhiên, ông Minh cũng cho biết thêm: “Khi NĐT được chia cổ tức nhà nước chưa thu thuế TNCN, nhưng khi có hoạt động giao dịch nhà nước dành quyền thu trước. lấy ví dụ NĐT có 1000 cổ phiếu, được chia cổ tức là 500 cổ phiếu thưởng, thì khi phát sinh giao dịch liên quan đến cổ phiếu đó, nhà nước thu 5% trên cổ tức được thưởng từ giao dịch đó”.

Cung cấp thông tin tài khoản: Cần phối hợp chặt chẽ giữa NHTM và cơ quan thuế

Nội dung liên quan đến việc cung cấp số hiệu tài khoản của ngân hàng thương mại cho cơ quan thuế cũng được phóng viên báo chí đặc biệt quan tâm tại buổi họp báo.

Theo ông Lưu Đức Huy, khoản 2, Điều 27, Luật 38 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của NHTM quy định: NHTM có trách nhiệm cung cấp thông tin về số hiệu tài khoản theo mã số thuế của người nộp thuế khi mở tài khoản”; Khoản 3 quy định: Khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế phải nộp theo quy định pháp luật về thuế của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử có phát sinh thu nhập từ Việt Nam”; Khoản 6, Điều 27 giao Chính phủ quy đinh chi tiết về điều này. Do đó, tại Khoản 2a, Điều 27 Nghị định 126 quy định: Theo đề nghị của cơ quan quản lý thuế, ngân hàng thương mại cung cấp thông tin tài khoản thanh toán của từng người nộp thuế bao gồm: tên chủ tài khoản, số hiệu tài khoản theo mã số thuế đã được cơ quan quản lý thuế cấp, ngày mở tài khoản, ngày đóng tài khoản.

“Ngân hàng thương mại chỉ cung cấp tài khoản thanh toán, tên chủ tài khoản, ngày đóng, ngày mở…chưa quy định số liệu giao dịch tài khoản”, ông Huy nói.

mr Huy.jpg

Ông Lưu Đức Huy, Vụ trưởng Vụ chính sách, Tổng cục Thuế cung cấp các nội dung mới tại Nghị định 126/2020

Trước lo lắng của phóng viên về việc làm thế nào xác định được giao dịch nào là giao dịch sản xuất kinh doanh và giao dịch nào từ hoạt động TMĐT để khấu trừ tại nguồn. Ngân hàng cho rằng khó thực hiện khi cung cấp MST của khách hàng, vì khi mở tài khoản không có yêu cầu cung cấp, ông Minh khẳng định, tới đây bổ sung hướng dẫn và cơ quan thuế hoàn toàn có thể cung cấp số liệu MST của NNT cho NHTM khi NNT lập tài khoản giao dịch tại NHTM. “Như vậy, một mặt NHTM yêu cầu người mở tài khoản cung cấp MST và cơ quan thuế cũng sẽ hỗ trợ NHTM về gán MST nếu có thông tin định danh cá nhân. Đây là điều hoàn toàn có thể làm được giữa cơ sở dữ liệu của Ngân hàng và cơ quan thuế”, ông Minh chia sẻ.

Ông Đặng Ngọc Minh cho biết thêm, việc cung cấp thông tin về tài khoản ngân hàng không phải nội dung mới. Năm 2016 với sự tham mưu kiến nghị của các NHTM có hoạt động thanh toán với ngân hàng Mỹ, NHTM cổ phần và NHTM đã kiến nghị Ngân hàng nhà nước báo cáo cấp có thẩm quyền ký Hiệp định trao đổi thông tin tài khoản liên quan đến tổ chức cá nhân là người Hoa Kỳ hoặc sinh sống trên lãnh thổ Hoa Kỳ đang có tài khoản tại Việt Nam. Theo đó, các NHTM không chỉ cung cấp thông tin định danh mà cung cấp thông tin giao dịch của các tài khoản này cho phía Mỹ. “Chính phủ mới có quy định cụ thể về nội dung này nhưng từ 2016 các NHTM đã có khả năng cung cấp thông tin thì hiện này không có vấn đề gì khó khăn”. Ông Minh nói.

Quy địa điểm nộp hồ sơ khai thuế không gây khó khăn cho NNT

Tại Khoản 1 Điều 11 Nghị định 126, địa điểm nộp hồ sơ khai thuế đối với người nộp thuế có nhiều hoạt động, kinh doanh trên nhiều địa bàn cấp tỉnh là cơ quan thuế nơi có hoạt động kinh doanh khác tỉnh, thành phố nơi có trụ sở chính với nhiều địa chỉ cụ thể được quy định. Theo phóng viên báo Đầu tư: Việc khai thuế quy định rõ địa điểm “như vậy mới đi được ½ chặng đường cải cách” khi NNT có thể kê khai tại bất kỳ đâu, nhưng lại bị quy định nơi nộp hồ sơ cụ thể. Trả lời câu hỏi của phóng viên, bà Lê Thị Duyên Hải, Vụ trưởng vụ Kê khai và kiểm tra thuế cho biết:

Quy định về địa điểm nộp hồ sơ khai thuế hay NNT sẽ nộp thuế cho cơ quan quản lý thuế nào được quy định trong Thông tư 156 và các thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư 156. Nay các nội dung này được đưa lên Nghị định giúp tập hợp trên cùng một văn bản theo nguyên tắc: NNT có hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn nào thì nộp hồ sơ khai thuế cho cơ quan quản lý thuế trên địa bàn đó. “Nguyên tắc này giữ nguyên không có gì thay đổi”, bà Hải giải thích.

Về chi tiết NNT nộp hồ sơ khai thuế điện tử, khi nộp hồ sơ khai thuế điện tử, địa chỉ cơ quan thuế tiếp nhận, xử lý, trả lời cũng như rà soát hồ sơ sẽ thể hiện trên hệ thống khai thuế điện tử thông tin cơ quan quản lý thuế trực tiếp của NNT.

Theo bà Hải, đây không phải điểm cải cách mới của Nghị định 126 mà chỉ được tập hợp cho rõ ràng hơn, đầy đủ hơn. NNT căn cứ trên số thuế, trên cổng liên thông quốc gia ghi MST và đích danh khoản được chuyển đến cơ quan thuế nơi tiếp nhận và giải quyết hồ sơ”.

Liên quan đến nội dung này, ông Đặng Ngọc Minh cũng cho rằng, việc quy định cơ quan quản lý thuế cụ thể gắn với trách nhiệm quản lý, công tác hỗ trợ, thanh tra, kiểm tra NNT trong quá trình quản lý thuế.

Nguồn: mof.gov.vn