Thứ Sáu, 11/12/2020 19:52:17 (GMT+7)

Luật PPP: điểm mới cần lưu ý

Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) số 64/2020/QH14 được Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 9 với 11 chương và 101 điều, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2021. Để có thể đưa Luật vào áp dụng trên địa tỉnh Vĩnh Phúc, Sở Kế hoạch và Đầu tư đã tích cực tuyên truyền, phổ biến, tổ chức hội thảo, tập huấn các nội dung của Luật, đóng góp ý kiến đối với dự thảo Nghị định hướng dẫn, quy định chi tiết một số nội dung của Luật PPP. Trong đó Luật PPP đưa ra một số quy định mới so với quy định cũ (Nghị định số 63/2018/NĐ-CP) như sau:

1. Về khái niệm: Luật PPP đưa ra khái niệm thống nhất về đầu tư theo phương thức đối tác công tư PPP (quy định tại Khoản 10, Điều 3 Luật PPP) là phương thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp tác có thời hạn giữa Nhà nước và nhà đầu tư tư nhân thông qua việc ký kết và thực hiện hợp đồng dự án PPP nhằm thu hút nhà đầu tư tư nhân tham gia dự án PPP (trước đây dự án PPP là hợp tác giữa nhà nước với nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án).

2. Về lĩnh vực đầu tư: Luật PPP rút gọn các lĩnh vực để tập trung đầu tư vào 05 lĩnh vực thiết yếu gồm: (1) Giao thông; (2) Lưới điện, nhà máy điện; (3) Thủy lợi, cung cấp nước sạch, thoát nước, xử lý nước thải, chất thải; (4) Y tế, giáo dục – đào tạo; (5) Hạ tầng công nghệ thông tin. (trước đây Nghị định số 63/2018/NĐ-CP quy định 07 lĩnh vực đầu tư theo PPP).

3. Về quy mô đầu tư: Nhằm tập trung nguồn lực, tránh dàn trải Luật PPP quy định thực hiện đầu tư PPP đối với dự án có tổng mức đầu tư từ 200 tỷ đồng, trừ dự án ở địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn hoặc trong lĩnh vực y tế, giáo dục – đào tạo (từ 100 tỷ đồng trở lên), nhưng lưu ý quy mô tổng mức đầu tư tối thiểu đối với từng lĩnh vực do Thủ trướng Chính phủ quy định (trước đây Nghị định số 63/2018/NĐ-CP không giới hạn tổng mức đầu tư các dự án PPP).

4. Phân loại dự án PPP: Khác với quy định trước đây theo Nghị định số 63/2018/NĐ-CP dự án PPP được phân loại theo pháp luật đầu tư công, Luật PPP quy định việc phân loại dự án gắn với thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư (Quốc hội; Thủ tướng Chính phủ; Bộ trưởng, người đứng đầu cơ quan trung ương và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh).

5. Bổ sung quy định về Hội đồng thẩm định dự án PPP: Luật PPP quy định 3 cấp Hội đồng thẩm định (nhà nước, liên ngành và cơ sở) dự án PPP tương ứng 3 cấp quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP để đảm bảo tính chặt chẽ, hiệu quả và khả thi trước khi dự án PPP đưa ra thị trường, thu hút đầu tư (trước đây hội đồng thẩm định dự án PPP gắn liền với các dự án đầu tư công).

6. Vốn nhà nước trong dự án PPP: Luật PPP quy định rõ vốn nhà nước trong dự án PPP và phương án quản lý từng hình thức hỗ trợ, tham gia vốn nhà nước; đặc biệt, trong Luật quy định hạn mức tham gia trong dự án PPP không quá 50% tổng mức đầu tư của dự án (Nghị định 63/2018/NĐ-CP: không có quy định về mức vốn NSNN tham gia dự án PPP, nhưng có yêu cầu không áp dụng đối với dự án do nhà đầu tư đề xuất và thực hiện chỉ định thầu).

7. Lựa chọn nhà đầu tư: Trước đây lựa chọn nhà đầu tư dự án PPP thực hiện theo quy định của Luật Đấu thầu, nhưng hiện nay Luật PPP thực hiện theo quy định riêng bảo đảm tính thống nhất, chỉnh thể và tính liên tục của quy trình thực hiện một dự án PPP. Theo đó, có 4 hình thức lựa chọn nhà đầu tư được áp dụng trong đầu tư theo phương thức PPP gồm: Đấu thầu rộng rãi; Đàm phán cạnh tranh; Chỉ định nhà đầu tư; Lựa chọn nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt.

8. Cơ chế chia sẻ phần tăng, giảm doanh thu: Đây là một cơ chế mới, quan trọng và chưa có trong các quy định trước đây, Luật PPP quy định cơ chế chia sẻ tăng (doanh thu tăng trên 125%), giảm doanh (doanh thu giảm dưới 75%) thu để giảm thiểu rủi ro cho dự án PPP, đặc biệt các rủi ro do từ những thay đổi từ phía Nhà nước.

9. Huy động vốn của doanh nghiệp dự án: Bên cạnh kênh huy động vốn truyền thống từ ngân hàng, Luật PPP cho phép doanh nghiệp dự án PPP được phát hành trái phiếu doanh nghiệp để huy động vốn thực hiện dự án PPP. Đây cũng là nội dung mới và đảm bảo theo thông lệ quốc tế, cũng như tạo thuận lợi cho doanh nghiệp kêu gọi vốn.

10. Kiểm toán Nhà nước đối với dự án PPP: Luật PPP quy định cụ thể phạm vi, nội dung Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán đối với dự án PPP đối với việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công tham gia vào dự án PPP; ngân sách nhà nước dùng để chia sẻ phần giảm doanh thu; và giá trị tài sản khi được chuyển giao cho Nhà nước.

11. Luật PPP không còn dự án thực hiện theo hợp đồng BT (xây dựng – chuyển giao): kể từ ngày Luật công bố, sẽ dừng nghiên cứu mới các dự án BT. Thực tế ở các địa phương (trong đó có tỉnh Vĩnh Phúc) hầu hết các dự án PPP thời gian vừa qua đều thực hiện theo hình thức hợp đồng BT. Nên khi Luật có hiệu lực sẽ thay đổi căn bản cơ cấu các loại hợp đồng dự án PPP ở địa phương.

BBT